Chương 1: Song Sư (01)
Hai mươi mốt năm trước.
Trời vừa mới vào thu, trong núi đã đổ xuống một trận tuyết lớn, cành khô lá úa bị chôn vùi dưới lớp tuyết dày, khi giẫm lên sẽ phát ra tiếng kêu răng rắc.
Trên nền tuyết có một chuỗi dấu chân nhỏ, A Đậu chạy nhanh hơn một chút, vừa lùi lại vừa gọi cậu bé phía sau: “A Tuyết, nhanh lên!”
Cậu bé chỉ mặc một chiếc áo bông cũ kỹ rách nát, lộ cả bông bên trong, được vá chằng vá đụp hơn chục chỗ, đường kim mũi chỉ xiêu xiêu vẹo vẹo, là chị gái khi còn sống may cho cậu, nhìn kỹ thì còn thấy cả vết máu không thể giặt sạch được. Đôi giày vải của cậu bé cũng đã sớm bị tuyết làm cho ướt sũng, ống chân nhỏ lộ ra ngoài cũng đỏ ửng như khuôn mặt. Nhưng đôi mắt cậu rất sáng, giọng nói non nớt mà vui vẻ, khi nói chuyện còn thở ra một làn khói trắng xóa.
A Tuyết thở hồng hộc, khẽ nói: “Tôi chạy không nổi nữa… Cậu chậm thôi, coi chừng ngã xuống.…”
“Không đâu! Chạy chậm bọn họ đuổi kịp thì sao?” A Đậu quay người lại chạy tiếp.
A Tuyết xoa xoa đôi chân đau nhức, nhỏ giọng oán trách: “Đâu phải hôm nay mới trốn, A Đậu…”
Nhìn kỹ lại, phía trước đâu còn thấy A Đậu nữa?
Gió lốc hất tung tuyết lên, tiếng gió rít gào lấp đầy thính giác, A Tuyết ngơ ngác nhìn về phía trước, lớn tiếng gọi A Đậu, nhưng cậu ta không nhận được hồi đáp nào.
Cậu ta lùi lại vài bước rồi dừng lại, cố nén sợ hãi bước về phía trước. Trong gió tuyết là một vách đá, A Đậu đã biến mất ở đó. Cậu ta nằm xuống, cố sức kêu xuống phía dưới: “A Đậu! A Đậu, có phải cậu rơi xuống dưới rồi không?”
“A… Tuyết…” Giọng A Đậu không còn hoạt bát nữa, mà yếu ớt như sắp bị tuyết nuốt chửng, “Cứu…mạng…”
“Tôi xuống ngay đây!” A Tuyết không nhìn thấy A Đậu, cậu ta quay lưng lại, cẩn thận bò xuống vách đá, nhưng cậu ta đã nhanh chóng dừng lại. Đá nhọn đâm rách áo bông và tay cậu ta, bông bay ra như tuyết, rồi bị máu nhuộm đỏ. Cậu ta sợ hãi, nước mắt rơi không ngừng, cố nén cơn đau bò ngược lên trên.
Ở nơi bị sương mù và tuyết che khuất, A Đậu vẫn đang gọi tên cậu ta. Cái giọng điệu đó cậu ta đã nghe rất nhiều lần, lúc chị cậu ta chết cũng như vậy, bụng bị xẻ một đường lớn, giọng nói như từ trong phổi ép ra, gọi cậu: “A Tuyết, đau quá.”
Cậu ta vội vàng lau nước mắt, “A Đậu, cậu chờ tôi, tôi không xuống được! Tôi về gọi người! Cậu nhất định phải chờ tôi!”
Giọng A Đậu dường như nhỏ hơn, “A Tuyết, cứu, cứu tôi…”
Cậu ta quay người chạy, chạy được vài bước lại quay trở lại, không biết là cổ vũ cho A Đậu hay là tự cổ vũ cho bản thân mình, “Cậu đừng chết, chúng ta phải cùng nhau đi về phương Nam!”
Một đám người ánh mắt hung tợn, mặc trang phục tác chiến hùng hùng hổ hổ kéo lên núi, một trong số đó xách A Tuyết lên như xách gà con, A Tuyết vừa khóc vừa nói: “A Đậu ở chỗ đó, cậu ấy rơi xuống rồi!”
Bên vách đá, người đàn ông ném A Tuyết sang một bên, buộc dây leo rồi hạ xuống. A Tuyết chăm chú nhìn xuống phía dưới. Không lâu sau, người đàn ông quay lại, giơ tay tát cho cậu ta một cái.
Cậu ta ngã xuống đất, há miệng phun ra một ngụm máu.
“Chạy rồi.” Người đàn ông đó lại đá A Tuyết một cái, ra lệnh cho người khác vác cậu ta lên, đưa về trong thôn.
Ngày hôm đó, A Tuyết và rất nhiều đứa trẻ khác trong thôn bị nhốt lại, nhốt trong chuồng gà, ngay cả việc thỉnh thoảng ra ngoài lên núi hóng gió cũng không thể. Bởi vì A Đậu đã chạy mất, những đứa trẻ còn lại phải “Chia sẽ” hình phạt.
A Tuyết không hận A Đậu, nhất định là A Đậu đã đi ngắm mùa xuân ở phương Nam rồi.
…………
Mùa xuân ở phương Nam không đẹp như trong tưởng tượng, mưa cứ rơi mãi không dứt. A Đậu “lang thang” đến thành phố Hạ Dung đã được ba tháng, trước đây nó còn có thể tìm được một chút đồ ăn thừa trong thùng rác, nhưng mưa không ngớt, đồ ăn tìm được đều đã bị ôi thiu thối rữa hết.
Cậu bị lạc mất chú Vệ cũng đã được nửa năm, cậu có chút hối hận vì đã không nghe lời chú Vệ, ngoan ngoãn đợi ở khách sạn.
Cậu sợ cảm giác phải chờ đợi, từ nhỏ đến lớn, chờ đợi luôn đi kèm với vận rủi. Cậu không thể để người trong núi tìm được mình, vậy nên chỉ có không ngừng chạy trốn mới có cảm giác an toàn.
Nhưng bây giờ, đừng nói là cảm giác an toàn, mạng của cậu cũng sắp không giữ được nữa rồi. Rất đói, không tìm được đồ ăn, cũng rất lạnh, chị gái nói mùa xuân ở phương Nam muôn hoa đua nở, nhưng sao những gì cậu nhận được chỉ có cái lạnh và ẩm ướt thấm vào tận xương tủy?
Cậu lại đến trước “ngôi nhà kính” sáng trưng đó, nuốt nước miếng, chăm chú nhìn những người lớn và trẻ con bên trong.
Trên bàn bày rất nhiều thức ăn, có thịt gà chiên vàng rộm, có đồ uống sủi bọt, cách một tầng kính cửa sổ nhưng dường như cậu vẫn có thể ngửi thấy được mùi thơm, cậu thèm thuồng không ngừng liếm môi.
Khóe miệng cậu bị nứt đã mấy ngày, cứ mãi không lành, đầu lưỡi dính phải vị tanh của máu, cậu có chút choáng váng. A Tuyết thấy máu là sẽ ngất xỉu, sẽ khóc rống lên, nhưng cậu lại không sợ máu, những việc A Tuyết không làm được cậu đều giúp A Tuyết làm thay. Bây giờ cậu chỉ là quá đói, trước mắt mới xuất hiện nhiều bóng chồng lên nhau.
Không ai nói với cậu, “ngôi nhà kính” là thiên đường của trẻ con, nhưng cậu đặc biệt khao khát. Bởi vì cậu nhìn thấy bên trong có rất nhiều đứa trẻ trạc tuổi mình. Cậu rất muốn nếm thử miếng thịt gà màu vàng rộm kia.
Nhưng cuộc sống trước đây đã dạy cho cậu biết không được ảo tưởng. Cậu chỉ đến xem như thường lệ, sau đó lại phải đi giành đồ ăn với chó hoang và người vô gia cư. Tầm nhìn đã rõ ràng hơn một chút, lúc này cậu mới phát hiện, có một cậu bé bên cửa sổ đang nhìn mình.
A Đậu không thấy lạ, mỗi lần cậu đến đây đều có trẻ con nhìn cậu, bọn chúng chỉ trỏ cậu, không biết nói gì với cha mẹ bên cạnh, sau đó cha mẹ cũng nhìn lại, có khi thương hại, có khi ghét bỏ, có khi là chế giễu.
Nhưng cậu bé kia lại khác. Nói thế nào nhỉ, tuy cậu bé mặc áo sơ mi trắng sạch sẽ và áo len mỏng, nhưng ánh mắt cậu ấy lại giống với những người vô gia cư nhỏ mà cậu gặp trên đường.
Không có thương hại, không có ghét bỏ, không có chế giễu. Cậu bé đó giống như một thiếu gia nhỏ lịch sự và tốt bụng.
Cậu bé nói chuyện với hai người trông như là cha mẹ một hồi, rồi lại nhìn cậu, sau đó người phụ nữ thu dọn đồ ăn trên bàn, bỏ vào túi, cậu bé nhận lấy, nhanh chóng chạy ra cửa hàng.
Phản ứng đầu tiên của A Đậu là chạy trốn.
“Này! Này….” Cậu bé vừa đuổi theo vừa gọi: “Tôi mang đùi gà cho cậu nè!”
Hương thơm ấm áp lan tỏa trong cơn mưa phùn lạnh lẽo, A Đậu dừng bước, cảnh giác quay về phía cậu bé. Cậu bé giơ túi lên cho cậu xem, “Cậu đói không? Tôi có rất nhiều đùi gà, cánh gà, cả bánh hamburger nữa, ăn không hết, cậu có thể giúp tôi ăn hết không?”
Bọn họ đứng dưới một gốc cây, những chiếc lá non của mùa xuân giúp che đi những hạt mưa – hoặc cũng có thể là mưa đã tạnh, mưa phùn ở thành phố Hạ Dung vẫn luôn lúc có lúc không như thế.
Cậu bé mở hộp giấy ra, đẩy về phía A Đậu.
A Đậu biết trên đời này không bao giờ có chuyện bánh tự nhiên từ trên trời rơi xuống, ăn vào có thể sẽ chết, nhưng cậu đói quá, vội vàng giật lấy nhét thật mạnh vào miệng. Lớp vỏ giòn tan màu vàng rơi đầy người cậu.
Cậu bé ngạc nhiên nói: “Cậu chậm thôi, tôi không ăn, đều cho cậu hết.”
A Đậu không kịp nói gì, không màng đến việc nếm thử mùi vị, khi cơn đói cồn cào rút đi, cậu đã ăn sạch sành sanh.
Cậu ngẩng đầu lên, có chút đề phòng.
Cậu bé buộc chặt túi nilon, “Cậu không có nhà hả?”
Cậu nghĩ nghĩ, gật đầu.
Cậu bé nhìn xung quanh, dường như đang phân biệt phương hướng, rồi chỉ về phía Bắc, nói: “Vậy cậu có thể đến trại trẻ mồ côi, cứ đi thẳng về phía bắc sẽ thấy có trại trẻ mồ côi Linh Lan Hương. Đến đó, cậu sẽ không bị đói bụng nữa.”
“Thành Thành!”
Từ đằng xa vọng đến tiếng gọi, cậu bé quay đầu lại vẫy vẫy tay, rồi lại nói: “Bọn họ gọi tôi đi rồi, tôi về đây. Cậu còn đói không?”
A Đậu lẩm nhẩm cái tên Linh Lan Hương, Thành Thành, lắc lắc đầu.
Cậu bé cười, “Vậy tạm biệt, chúc cậu may mắn.”
A Đậu cứ đứng dưới gốc cây đó cho đến khi cậu bé và hai người lớn kia lên xe rời đi. Sau đó, mãi đến khi nước mưa xuyên qua bóng cây, rơi xuống đầu cậu, cậu mới bước ra khỏi gốc cây, ngơ ngác nhìn quanh ngã tư đường, rồi đi về phía Bắc.
……………
“Đội trống lưng đó đang đi diễu hành sao? Mới nửa tiếng mà đã đi qua ba lần rồi.”
Vào giờ cơm tối, trong phòng riêng ở tầng hai của một nhà hàng dân dã có hơn chục người đang ngồi, bọn họ đều là cảnh sát hình sự của đội trọng án thành phố.
Tịch Vãn, nữ đội viên duy nhất của Đội trọng án thành phố Hạ Dung, đã kết hôn được nửa năm nhưng ngay cả thời gian tổ chức đám cưới cũng không có, tuần trước giải quyết xong một vụ án, cuối cùng cũng có thời gian nghỉ ngơi, vội vàng mời đồng nghiệp đi ăn một bữa cơm.
Nhà hàng này nằm trên phố ẩm thực ở khu Bắc, lúc này đang rất náo nhiệt. Đội trọng án vừa ngồi xuống, bên ngoài đã vang lên tiếng trống ầm ĩ, pháp y An Tuần còn đùa: “Chị Vãn, chị mời đội trống lưng à?”
Tịch Vãn cười nói: “Nhìn thấy cái nhà hàng món ăn đường phố đối diện kia không? Người ta đang khai trương nên có mời đội trống lưng đến tạo không khí đó.”
An Tuần: “Vậy chúng ta tiện thể hưởng ké chút náo nhiệt.”
Tiếng trống nghe một chút thì vui vẻ, nghe một tiếng đồng hồ thì đau cả đầu, may mà cảnh sát hình sự đều là những người ăn khỏe, giữa mọi người cũng quen thân, không có nhiều thủ tục, rất nhanh đã kết thúc bữa ăn.
Trước khi rời quán, Tịch Vãn dặn mọi người đừng quên đồ, đi đến bên cửa sổ lại nhìn xuống dưới. Đội trống lưng lại một lần nữa “tuần tra” đến dưới nhà hàng dân dã, một đám các dì đã về hưu mặc bộ đồ kung fu bằng lụa đỏ vàng, cổ tay buộc dải lụa, dải lụa nối liền với trống lưng và chũm chọe, trên mặt trang điểm rất đậm, vừa đánh trống vừa đọc tên món ăn.
Không biết từ khi nào, thành phố Hạ Dung lại nổi lên trào lưu các quán ăn nhà hàng khai trương đều phải mời đội trống lưng, đội trống lưng thường do các dì đã về hưu lập nên, thỉnh thoảng cũng thấy các chú đã về hưu. Tịch Vãn đang chuẩn bị quay người lại thì ánh mắt đột nhiên bắt gặp một bóng hình rất khác biệt trong đội trống lưng.
Người đó cũng mặc bộ đồ lụa đỏ vàng, trên đầu còn buộc hai búi tóc bằng lụa cùng màu, hai má có hai vệt hồng đào chói mắt. “Cô ấy” đi ở đầu đội hình, dáng người cao ráo, như đang đi đôi giày cao gót, nhưng “cô ấy” lại đang đi một đôi giày thể thao.
Tịch Vãn càng nhìn càng ngạc nhiên, “cô ấy” đánh trống rất hăng say, cánh tay duỗi thẳng, dải lụa bay phấp phới, trông như đang nhảy múa.
Là một chuyên viên giám định dấu vết của đội trọng án, đôi mắt của Tịch Vãn có thể gọi là “Hỏa nhãn kim tinh”, lập tức nhìn ra đó căn bản không phải là “cô ấy”, mà là anh ấy.
Mặc đồ nữ, búi tóc hai bên, cùng các dì đánh trống lưng một cách thoải mái như thế là một người đàn ông trẻ tuổi!
Lớp trang điểm của người đàn ông không biết là ai trang điểm cho, hai vệt má hồng kia e là dùng son môi quệt lên, đúng là hết nói nổi.
Nhưng dù như vậy, cũng khó che giấu được nét đẹp trời ban của người đàn ông. Nếu rửa sạch mặt rồi gỡ búi tóc đó ra, hẳn phải là một anh chàng đẹp trai thanh tú.
“Còn chưa đi à?” Một giọng nói trầm ấm vang lên sau lưng, Tịch Vãn quay đầu lại, vội vàng gọi, “Đội trưởng, anh mau đến xem này, trong đội trống lưng có người nam cải trang nữ kìa.”
Quý Trầm Giao, đội trưởng đội trọng án, nghe vậy cũng bước đến bên cửa sổ, liếc mắt một cái đã thấy người đàn ông mà Tịch Vãn nói.
Tịch Vãn nói: “Tôi đây là lần đầu tiên thấy nam đánh trống lưng, anh nói xem anh ta nghĩ gì vậy?”
Có lẽ nhờ thân hình và cánh tay thon dài, người đàn ông đánh trống rất đẹp mắt, tuy trang điểm trông rất buồn cười, nhưng tổng thể lại hài hòa một cách bất ngờ.
“Không có gì lạ.” Ánh mắt Quý Trầm Giao dừng lại ở hai búi tóc trên đầu người đàn ông, “Trống lưng đòi hỏi thể lực không nhỏ, nam thanh niên thể lực sung mãn, ngược lại còn phù hợp hơn bọn họ.”
Tịch Vãn cũng chỉ muốn bát quái một chút, không ngờ Quý Trầm Giao lại trả lời nghiêm túc như vậy, bèn đùa: “Vậy đội trưởng, anh cũng tham gia đội trống lưng đi?”
Quý Trầm Giao vừa định mở miệng thì người đàn ông đó dường như chú ý đến ánh mắt ở phía trên, hắn ngẩng đầu nhìn về phía cửa sổ. Tịch Vãn lập tức tránh sang một bên, Quý Trầm Giao chạm mắt với người đàn ông, anh khẽ nhíu mày.
Người đàn ông mang một khuôn mặt lòe loẹt, khóe môi còn vương ý cười chưa tan, dường như bị người khác nhìn cũng không giận, vài giây sau liền dời tầm mắt đi, sau đó lại tiếp tục theo các dì tiến về phía trước.
Khi đội trọng án xuống lầu, đội trống lưng đã đi xa, Quý Trầm Giao vô thức nhìn về hướng đội trống lưng vừa đi.
“Đội trưởng?” An Tuần gọi: “Anh đang nhìn gì vậy?”
Quý Trầm Giao thu hồi ánh mắt, đi theo mọi người, “Không, có uống cà phê không, tôi mời.”
……….
Hơn bảy giờ, đội trống lưng tập hợp trước cửa nhà hàng món ăn đường phố, đội trưởng Cường Xuân Liễu quét mã thu tiền của ông chủ, vui vẻ chia cho các thành viên. Bà tổ chức tốt, thành viên lại năng nổ, chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi, đội trống lưng Xuân Liễu của bọn họ đã nổi tiếng ở khu Bắc, ngay cả đơn hàng phía Nam cũng nhận được không ít.
“Tiểu Lăng, đến đây, tôi quét cho cậu.” Cường Xuân Liễu gọi Lăng Liệp. Lăng Liệp lấy ra một chiếc điện thoại giống các dì, nhận được năm mươi tệ.
“Cảm ơn chị.” Lăng Liệp nhận tiền xong liền bỏ điện thoại vào một chiếc túi đeo bên hông thật quê mùa. Cường Xuân Liễu nhìn điện thoại của hắn, lại nhìn túi đeo bên hông của hắn, không nhịn được lại lải nhải, “Tiểu Lăng à, hay là cậu đổi điện thoại đi? Túi cũng đổi luôn đi?”
Lăng Liệp ngơ ngác, hắn cầm túi đeo hông lật qua lật lại xem, “Có rách đâu.”
Cường Xuân Liễu càng nhọc lòng hơn, “Cái loại túi này là mấy bà già chúng tôi dùng khi đi chợ, đến tôi còn chê nó quê mùa, cậu là thanh niên dùng nó trông lôi thôi thế nào ấy? Điện thoại cũng vậy, tôi thấy bọn trẻ tuổi các cậu bây giờ đều dùng iPhone với Huawei, cái của cậu…. không giống người trẻ dùng chút nào.”
Lăng Liệp không hề lúng túng gượng gạo, đôi mắt dịu dàng mỉm cười, “Nhưng mà tôi nghèo.”
Cường Xuân Liễu, “…” Được rồi, chỉ cần một câu đã chặn họng được bà rồi.
Nhà hàng món ăn đường phố bao một bữa cơm, các dì đều đi vào trong nhà hàng, Cường Xuân Liễu hỏi: “Tiểu Lăng, ăn rồi về nhé?”
Lăng Liệp nói: “Tôi không ăn, vào rửa mặt rồi đi.”
Cường Xuân Liễu thấy hắn đi về phía bồn rửa mặt, bèn cùng các chị em ngồi vào bàn. Theo bà thấy, Lăng Liệp có chút kỳ lạ, hai tháng trước đột nhiên nói muốn gia nhập đội trống lưng của bọn họ, làm bà giật cả mình, còn tưởng là trò lừa đảo mới gì đó, đến lừa tiền của các bà già này.
Nhưng Lăng Liệp đánh trống rất nghiêm túc, dáng dấp lại đẹp, từ khi có Lăng Liệp, công việc của bọn họ làm ăn phát đạt hơn hẳn. Mọi người nhanh chóng chấp nhận chàng trai trẻ kỳ lạ này.
Nghĩ đến đây, Cường Xuân Liễu ghen tị hừ một tiếng. Thực ra đội trống lưng Xuân Liễu trước đây làm ăn còn tốt hơn bây giờ, ở gần xa có nhà hàng nào khai trương mà thiếu bọn họ? Cũng là do cái đội người mẫu Hồng Vân đột nhiên nổi lên một “Nữ Hàng Mỹ Mạo” quyến rũ, mới cướp mất không ít khách hàng của bọn họ.
Không hiểu các ông chủ nghĩ gì, khai trương không đánh trống lưng, lại mời một đám bà già đi trình diễn thời trang, một đống tuổi rồi còn ăn mặc như con gái, có biết xấu hổ không kia chứ? Cường Xuân Liễu tuy khinh bỉ, nhưng vẫn theo dõi “Nữ Hàng Mỹ Mạo” trên nền tảng video Mộc Âm, hễ có gì là vào chửi cô ta vài câu, rồi học theo cách trang điểm và ăn mặc của cô ta.
Hôm nay lớp trang điểm của bọn họ cũng là học theo “Nữ Hàng Mỹ Mạo”, nhưng dường như không học được hết tinh túy, Cường Xuân Liễu tính sẽ cho đội trống lưng tăng cường học tập, tìm thời gian cũng học xem trình diễn thời trang là thế nào. Không thể để người khác chiếm hết spotlight được, đúng không?
May mà trong tay bà còn có một con át chủ bài là Lăng Liệp, nếu như lần nào hoạt động Lăng Liệp cũng đến thì tốt rồi.
Cường Xuân Liễu không khỏi nghi ngờ, thỉnh thoảng Lăng Liệp mới tham gia hoạt động, đến rồi cũng không ăn cơm, nhận tiền xong liền về, hỏi thì nói là ở nhà có cơm rồi. Lăng Liệp hẳn là rất thiếu tiền, vậy tại sao có cơm mà không ăn?
………
Lăng Liệp rửa sạch mặt, búi tóc cũng tháo ra, mái tóc đen dài ngang vai dính giọt nước, vài lọn dính vào mặt, bị gió lạnh đầu xuân thổi qua, cái lạnh thấm vào da thịt. Hắn như tham luyến cái lạnh mà người bình thường không thích này, khẽ ngẩng mặt lên, thoải mái hít một hơi sâu.
Xuống xe buýt, Lăng Liệp đi thẳng đến trường mầm non Nguyệt Lượng Hoa, nhìn thấy cánh cửa khóa chặt mới nhớ ra trường mẫu giáo đóng cửa vào lúc sáu giờ mỗi ngày.
Đây là kiến thức thường thức, vậy mà lại không nhớ.
Lăng Liệp làm tình nguyện viên ở trường mầm non này, mỗi tuần căn tin có ba ngày sẽ cung cấp món bánh bao tình yêu của hắn – bánh bao sốt thịt heo, hôm nay bỏ lỡ rồi.
Lăng Liệp cũng không để ý lắm, đối diện trường mầm non có một cửa hàng McDonald. So với bánh bao sốt thịt heo thì McDonald có một nhược điểm duy nhất là phải tốn tiền.
Nửa tiếng sau, Lăng Liệp xách túi McDonald về căn nhà cũ mà hắn thuê.
Căn nhà từ thế kỷ trước, không có thang máy, cách âm rất kém, được cái là giá cho thuê rẻ, hơn nữa người bán hàng rong cũng không ai quản, các sạp hàng bày bán rất nhộn nhịp, muốn ăn gì cũng có thể mua được.
Lăng Liệp thích.
Trước khi vào nhà còn gặp một chuyện nhỏ, hai căn hộ ở tầng bốn cửa mở toang, một người phụ nữ hơn năm mươi tuổi giọng vang như sấm, gọi tên đứa trẻ, bắt chúng tập thể dục ở hành lang, thấy có người đi qua, cũng không có ý tránh đường.
Lăng Liệp nghiêng người đi qua cạnh người lớn và trẻ con, khi đến trước cửa 402, vừa định mở cửa thì một đứa trẻ hét lên: “Oa! Thơm quá! Cháu muốn ăn!” Vừa nói vừa định giật túi của Lăng Liệp. Lăng Liệp lập tức giơ tay lên cao, đứa trẻ vồ hụt, ngay lập tức mách với người lớn, “Chú ấy không cho cháu ăn!”
Người phụ nữ bất mãn nhìn về phía Lăng Liệp, Lăng Liệp không để ý tới bọn họ, mở cửa rồi đóng cửa một hơi liền mạch.
Người phụ nữ bảo vệ đứa trẻ, “Không cho thì thôi, đừng có chọc vào thằng đó, nó không có công việc gì, là đồ du thủ du thực…”
“Du thủ du thực là gì?”
“Là người xấu, sẽ ăn thịt trẻ con.”
Lăng Liệp nghe rõ mồn một cuộc đối thoại bên ngoài. Hắn thờ ơ cười lạnh, rửa tay mở túi và hộp giấy ra, khi nhìn thấy bánh mì kẹp đùi gà và cánh gà, trong mắt hiện lên ý cười rất ngây thơ.
…………….
Nửa tháng sau, mùa xuân về trên khắp đất trời.
Cây cổ thụ không biết đã bao nhiêu năm tuổi đâm chồi nảy lộc, cành lá xanh biếc vươn vào tòa nhà cũ xám xịt như xác chết. Vương Lệ Phân dẫn cháu trai đi chợ về, lại mở toang cửa như mọi ngày, ngồi trên ghế đẩu nhỏ ở cửa nhặt đậu que, để cháu trai chạy nhảy khắp hành lang.
“Bà ơi! Cháu muốn ăn McDonald!” Từ khi thằng bé nhìn thấy người đàn ông ở căn hộ 402 xách túi McDonald, nó như bị trúng tà, ngày nào cũng đòi ăn McDonald. Nhà bọn họ đâu phải nhà giàu, cuối tuần ăn một bữa còn được, ngày nào cũng ăn thì chịu làm sao nổi?
Trong lòng Vương Lệ Phân thầm mắng cái tên ở căn 402 kia, bà liếc mắt nhìn về hướng căn 402, cháu trai nhào tới vừa khóc vừa làm nũng, “Không ăn đậu que, muốn ăn đùi gà!”
“Ăn ăn ăn! Ăn cái đầu nhà mày!” Vương Lệ Phân quát: “Mày đi xem thử cái tên du thủ du thực kia có cho mày ăn không!”
Cháu trai khóc lóc thảm thiết một hồi, lại thật sự đi về phía căn hộ 402. Đầu tiên, nó cẩn thận ghé mắt vào khe cửa, không ngờ cửa lại bị đẩy ra. Nó sợ bị người xấu nhìn thấy, vội vàng trốn đi.
Đợi mấy phút, nhưng vẫn không có động tĩnh gì. Nó lấy hết can đảm, lại tò mò đi đến căn hộ 402 lần nữa.
Phía sau cánh cửa ánh nắng ngập tràn, rèm cửa bị gió thổi phồng lên, rung rinh trên mặt đất thành những bóng đổ như sóng gợn.
Đôi mắt đứa bé nhìn chằm chằm vào người đang ngồi giữa ánh nắng không nhúc nhích, người đó mặc bộ đồ kung fu bằng lụa màu đỏ vàng, trên đầu búi hai búi tóc, trên eo đeo trống. Ánh nắng chiếu vào khuôn mặt trắng bệch của người đó, trông như một tờ giấy chưa được tô màu. Bộ đồ kung fu của người đó bị thấm ướt, nhưng chất lỏng sẫm màu kia trông như máu.
Đứa bé lùi lại, run rẩy đến mức răng cũng va vào nhau lập cập.
Vương Lệ Phân nhặt đậu que xong, gọi nó nửa ngày mà nó vẫn không trả lời, bà vừa chửi rủa vừa đi tóm người, “Sao tao lại có đứa cháu như mày chứ, bố mày…”
Tiếng mắng chửi đột ngột im bặt, vài giây sau, tiếng nồi niêu xoong chảo và tiếng tivi trong tòa nhà bị tiếng thét chói tai của Vương Lệ Phân át đi.
“Chết… chết người rồi!”
Hết chương 1.